Quá Trình Hình Thành
1. Đệ Nhất Sư Tổ Dasira Narada
Vào ngày 24 tháng 10 năm 1846 tại thành phố Colombo, Tích Lan, trong một gia đình quyền chức, Ngài DASIRA NARADA ra đời. Thân phụ người Tích Lan mang dòng máu Bombay tên Ajita Narada, là một viên chức ngoại giao. Thân mẫu người Ceylon, là một phật tử thuần tánh, đầy đủ đức hạnh của người phụ nữ Á Châu. Được phối hợp của hai dòng máu đã mang lại cho Ngài một sắc mạo trắng hồng và một tâm hồn thanh cao thoát tục. Vì là con trai duy nhất, cũng là niềm hy vọng của gia đình nên thân phụ Ngài mong muốn Ngài đổ đạt thành tài, lập gia đình sinh con nối dõi. Nhưng vốn sẵn có tâm hồn cao thượng vị tha, Ngài không theo đuổi các ngành học vấn có tính chất đem lại lợi ích cá nhân, mà Ngài chuyên tâm nghiên cứu vũ trụ và con người. Vào năm 25 tuổi, Ngài đã đậu bằng tiến sĩ triết học Đông Phương. Sự hiểu biết sâu sắc về ngành học này giúp cho Ngài nhận ra kiếp người vô thường, cộng với tình thương yêu nhân loại và ý chí hướng thượng, đã làm động lực thúc đẩy Ngài tìm đường giải thoát cho mình và nhân loại. Năm 42 tuổi, khi thân phụ qua đời, Ngài kế thừa sự nghiệp của cha. Năm năm sau, đột nhiên Ngài từ bỏ tất cả danh lợi vật chất mà bao nhiêu người mong muốn. Trên thân một mảnh y bạc màu, trong tay một chiếc gậy thô sơ, Ngài lặng lẽ ra đi tìm nơi tu tập. Ngài đặt chân lên dãy Hy Mã Lạp Sơn để ẩn tu. Sau 18 năm tu luyện, Ngài đã chứng đắc Trí Đạt Thông, tự khai mở những cánh cửa luân xa, tiếp nhận vũ trụ tuyến vào thân thể. Điều quan trọng là Ngài đã tư duy ra Vi Diệu Pháp để khai mở luân xa cho người khác, giúp họ tu học mà khỏi phải trải qua nhiều năm công phu khổ luyện như Ngài.
2. Đệ Nhị Sư Tổ Narada Mahathera và 5 Vị Tu Sĩ Tại VN
Sau thời gian du hóa khắp mọi nơi để giúp người, vào năm 1916 Đức Sư tổ Dasira Narada đã tìm chọn được một người đệ tử, lúc đó vừa tròn 18 tuổi. Ngài đã đặt hết niềm tin và chỉ dạy tất cả những hiểu biết thành tựu của Ngài cho người đệ tử, với ước mong đệ tử của Ngài sẽ gìn giữ Vi Diệu Pháp để lưu truyền cho hậu thế. Sau 8 năm truyền dạy cho đệ tử, năm 1924 Sư Tổ Dasira Narada đã ẩn mình và từ đó không ai còn thấy Ngài nữa.
Ngài Đệ Nhị Sư Tổ vốn xuất thân từ trường giòng Thiên Chúa giáo, nhưng sau khi được thọ nhận trách nhiệm giao phó của Đức Sư tổ Dasira Narada, Ngài đã chuyển sang Phật giáo Nam tông để tu hành với pháp danh Narada Mahathera, tuy nhiên Ngài vẫn tiếp tục âm thầm tu học và gìn giữ Vi Diệu Pháp. Do có nhiều duyên lành với Việt Nam, trên bước đường hoằng pháp khắp nơi vào những thập niên 1930-1950, Đệ Nhị Sư Tổ đã có nhiều dịp ghé sang và đi khắp mọi miền Việt Nam. Ngài đã thay mặt Phật Giáo Ấn Độ đem tặng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Ngọc Xá Lợi, Kinh Tạng và cây Bồ Đề - di tích của Phật Thích Ca. Năm 1972, Đệ Nhị Sư Tổ trở lại Việt Nam lần cuối và đã mật truyền Vi Diệu Pháp cho năm vị tu sĩ Việt Nam gìn giữ, bao gồm các tôn giáo chánh ở Việt Nam là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo và một nữ Bác sĩ tu tại gia. Năm 1974, Ngài trở về nước Tích Lan, từ đó không quay trở lại Việt Nam nữa. Chủ nhật, ngày 2, tháng 10, năm 1983, Đệ Nhị Sư Tổ viên tịch tại chùa Vajirarama, là nơi Ngài làm tăng trưởng và chưởng quản trong những năm cuối của đời Ngài. Đệ Nhị Sư Tổ hưởng thọ 85 tuổi. Tang lễ của Ngài được chính phủ và phật tử Tích Lan cử hành trọng thể theo quốc tang.
3. Chúng Tôi Nguyễn Đức Thuận và Nguyễn Ngọc Hải
Vi Diệu Pháp của Đức Sư Tổ Dasira Narada đã được gìn giữ để chờ đợi đến thời cơ thích hợp và thuận duyên. Sau 3 đời, từ Đức Sư Tổ, đến Đệ Nhị Sư Tổ và lần đến 5 vị tu sĩ ở Việt Nam, ngày nay thế hệ thứ tư do chúng tôi thọ nhận phần nhiệm từ những vị Thầy này. Từ đó chúng tôi đã truyền dạy Pháp của Đức Sư Tổ trong thế giới tâm linh ra ngoài thế giới hiện hửu và đã thành lập ra Pháp môn Vi Diệu Pháp ngày hôm nay.
Chúng Tôi Là Ai:
Chúng tôi thông suốt được nền tảng giáo lý của các tôn giáo chánh là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Khổng Giáo và Lão Giáo qua các vị Thầy đời thứ 3. Điều đáng nói ở đây là bản thân chúng tôi từ trước chưa từng bị ràng buộc vào một tôn giáo nào. Nhờ vậy mà chúng tôi được sự phóng thoáng và tự do để tư duy ra một đạo lý tu học đương niệm, thích hợp cho mọi thành phần, không phân biệt, màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị,… Nương theo tư tưởng của Đức Sư Tổ Dasira Narada, chúng tôi đã giúp con người hiểu biết, sống đạo đức, thoát khỏi mọi sự vị kỷ, phát triển một đời sống vị tha. Nhờ vậy sự giảng dạy của Pháp môn VDPHT đi đến nơi nào đều phù hợp và thích ứng được với phong tục tập quán của nơi đó.
Đức Sư Tổ Dasira Narada là vị Tổ khai mở ra đại lộ hầu đưa dẫn con người sáng suốt dần đến diệt khổ và giải thoát. Từ những siêu lý của Đức Sư Tổ trong thế giới tâm linh, chúng tôi đã dùng tất cả tâm huyết để tư duy ra một phương pháp tu tập thực tế khoa học. Minh triết dẫn dắt con người thoát khỏi mê tín, giải toả được những vướng mắc trong nội tâm, và hướng dẫn môn sinh từng bước một, trên con đường tu học tiến hoá tâm linh. Do đó Pháp môn VDPHT mới được mệnh danh là môn khoa học tâm linh.
Trong những năm qua, chúng tôi đã đem hạt giống tình thương của Đức Sư Tổ gieo khắp nơi. Hiện nay, Pháp môn VDPHT đã có rất nhiều thiền đường trên thế giới, mỗi ngày các thiền đường hoạt động không ngừng nghỉ, giúp cho mọi người đạt được sự hiểu biết chân chánh, và mở rộng tình thương, hầu đem lợi ích cho sự tiến hóa chung của nhân loại. VDPHT là ngọn đuốc thiêng, soi sáng và hướng dẫn con người vượt thoát khỏi những bế tắc hiện tại, để xây dựng thế giới đại đồng, trong đó mọi người sống hòa thuận trong sự hiểu biết và tình thương. Chắc chắn rằng Pháp môn VDPHT sẽ được các thế hệ nối tiếp gìn giữ và phát huy.